Nhìn lại chặng đường 10 năm trở lại đây, ngành công nghệ thông tin nói chung và ngành viễn thông Việt Nam nói riêng đã có những bước phát triển vượt bậc. Những khái niệm về viễn thông mới bắt đầu ra đời.
Đến năm 2000, cả nước mới có khoảng 3 triệu thuê bao điện thoại (đạt mật độ 3,5 máy trên 100 dân). Trên các bảng xếp hạng chỉ số liên quan đến công nghệ thông tin và viễn thông như chỉ số sẵn sàng cho nền kinh tế điện tử hay chỉ số sẵn sàng kết nối NRI, Việt Nam đều đứng ở vị trí cuối bảng hoặc thậm chí như chỉ số xã hội thông, còn chưa được cho vào bảng xếp hạng. Năm 2000, lần đầu tiên có một dịch vụ viễn thông không do VNPT cung cấp. Với dịch vụ điện thoại đường dài VoIP 178 của Viettel, người dân Việt Nam đã có thể lưạ chọn sử dụng các dịch vụ viễn thông với cước phí thấp hơn tới 40%.
Thế độc quyền đã dần được phá bỏ. Nhưng, bỏ độc quyền không đồng nghĩa với việc thị trường chắc chắn phát triển bùng nổ. Bởi lúc đó, có một mặc định rằng viễn thông là công nghệ hiện đại, cao cấp, đương nhiên dịch vụ viễn thông cũng là cao cấp, là dành cho số ít. Nếu các doanh nghiệp đi sau vẫn giữ nguyên quan niệm này thì chắc chắn rằng bức tranh viễn thông ở Việt Nam ngày hôm sẽ vẫn đơn điệu.
Nhưng những người đi sau lại nghĩ rằng, viễn thông phải trở nên rất rẻ và phải rất dễ dàng nằm trong tay mỗi người, vào trong nhà của mỗi gia đình. Vì đó là nhu cầu cơ bản thiết yếu mỗi người. Từ tư duy này, một khái niệm viễn thông mới ở Việt Nam đã hình thành. Khái niệm mới này về sau được tổng quát thành 4Any. Đó là anytime: mọi lúc, anywhere: mọi nơi, anybody: mọi người, anyprice: giá rẻ.
Chính thức cung cấp dịch vụ di động vào năm 2004. Nhưng chỉ sau một năm, Viettel đã có một triệu thuê bao. 6 năm sau, đã có tới 40 triệu thuê bao (gấp 10 lần tổng số thuê bao di động toàn quốc vào năm 2004) và phủ sóng di động tới 95% diện tích và 98% dân số. Dưới sức ép cạnh tranh, các nhà cung cấp dịch vụ di động còn lại cũng buộc phải đi theo con đường mà khái niệm viễn thông mới đã đưa ra.
Viễn thông đã đi vào từng gia đình ở khắp ngõ ngách bản làng, nằm trong bàn tay của mỗi người không phân biệt giàu nghèo, tuổi tác. Và quan trọng, giá đã rẻ hơn rất nhiều so với 10 năm trước. Một khái niệm mới được kiên trì thực hiện, trên bản đồ viễn thông quốc tế, Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh thứ 2 thế giới. Chỉ trong 10 năm, cả nước đã có 114 triệu thuê bao (đạt mật độ 132 máy cho 100 dân), tăng lên 28 lần so với năm 2000.
Cuối năm 2009, đầu năm 2010, các nhà cung cấp lần lượt khai trương dịch vụ di động 3G. Một lần nữa, quan điểm phát triển của các nhà cung cấp lại có những khác biệt cơ bản. Các nhà cung cấp thuộc VNPT cho rằng 3G là một dịch vụ viễn thông cao cấp, giá thành cao nên chỉ tập trung đầu tư cung cấp tại các trung tâm dân cư có mức sống cao. Còn Viettel ngay từ đầu đã cho rằng 3G cũng chỉ là dịch vụ bình dân. Gần đây, lãnh đạo của doanh nghiệp này còn cho biết đến cuối năm 2010, về cơ bản, sóng 3G sẽ phủ rộng tương đương 2G. Kèm theo đó là chương trình quang hóa đến tận các vùng nông thôn.
Hiện, có đến 20 triệu hộ dân với khoảng 80% dân số Việt Nam chưa được sử dụng Internet băng rộng và chưa có truyền hình cáp. Đây chính là những nhiệm vụ mà viễn thông nói riêng và công nghệ thông tin nói chung cần phải trực tiếp thực hiện trong thời gian trước mắt. Và khái niệm viễn thông 4Any vẫn là con đường để đi đến mục tiêu.
Cẩm Ly