Thông tin được Thạc sĩ, Bác sĩ Trần Lâm Hùng, Giám đốc Bệnh viện Thẩm mỹ Kangnam chia sẻ tại hội thảo "An toàn trong phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ" vừa diễn ra ở TP HCM.
Bác sĩ Hùng cho biết, trong phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ luôn tiềm ẩn rủi ro và những tai biến, biến chứng; nguy hiểm có thể đến từ việc gây tê, gây mê là sốc phản vệ và ngộ độc thuốc tê. Các biến chứng vùng hàm mặt, bụng, ngực nặng có thể gặp như mất nhiều máu, nhiễm trùng, tắc mạch, tổn thương mạch máu...
Dưới đây là chia sẻ của bác sĩ Hùng về dấu hiệu nhận biết, cách phòng và xử trí.
Phản vệ và ngộ độc thuốc tê
- Phản vệ thuốc tê
Sốc phản vệ là phản ứng quá mẫn toàn thân xuất hiện sau khi cơ thể tiếp xúc dị nguyên (yếu tố lạ). Còn ngộ độc thuốc tê là khi các phân tử của thuốc ảnh hưởng lên toàn thân, nhất ở hệ thần kinh trung ương và hệ tuần hoàn, gây ra biến chứng trầm trọng. Hai trường hợp này cần phân biệt và phát hiện sớm để xử trí phù hợp và kịp thời.
Phản vệ khởi phát từ vài phút đến vài giờ, có thể nhanh chóng chuyển từ nhẹ đến nặng, nghiêm trọng sẽ đe dọa tính mạng. Các triệu chứng có thể gặp như mày đay, phù, mạch nhanh; khó thở, tức ngực, thở rít; đau bụng hoặc nôn; tụt huyết áp hoặc ngất; rối loạn ý thức.
Chẩn đoán mức độ nhẹ (độ I): có các biểu hiện trên da, niêm mạc như tím tái; mức nặng (độ II): có từ hai biểu hiện ở nhiều cơ quan; mức nguy kịch (độ III): biểu hiện nặng, tụt huyết áp; ngừng tuần hoàn (độ IV).
Bệnh nhận cần ngừng tiếp xúc với dị nguyên. Nếu phát hiện sớm và điều trị đúng, bệnh nhân phục hồi hoàn toàn, phát hiện muộn và điều trị không đúng dẫn đến sốc.
- Ngộ độc thuốc tê
Triệu chứng lâm sàng đa dạng, 80% khởi phát trong vòng 30 phút. Sau khi gây tê, phẫu thuật viên cần nghĩ ngay đến ngộ độc thuốc tê khi có thay đổi tình trạng ý thức, thần kinh hoặc rối loạn tim mạch.
Ngộ độc thần kinh tiến triển với triệu chứng hưng phấn thần kinh (kích động, thay đổi thính giác, vị kim loại hoặc khởi phát đột ngột các triệu chứng tâm thần), sau đó là co giật, ức chế thần kinh (ngủ gà, hôn mê hoặc ngừng thở).
Dấu hiệu ban đầu của ngộ độc tim xuất hiện gần cuối quá trình ức chế thần kinh gồm tăng huyết áp, nhịp nhanh hoặc loạn nhịp thất và cuối cùng là ức chế tim (nhịp chậm, block dẫn truyền, vô tâm thu, giảm co bóp).
Xử trí bằng cách ngừng ngay việc tiêm tê và gọi người hỗ trợ; kiểm soát đường thở, thở oxy; thiết lập đường truyền (ít nhất hai đường); sử dụng nhũ tương lipid ngay khi bắt đầu có triệu chứng ngộ độc thuốc tê.
Bác sĩ có thể sử dụng dung dịch nhũ tương lipid 20% là thuốc đầu tay đối với xử trí ngộ độc thuốc tê vì chúng có tác dụng tách phân tử thuốc tê ra khỏi tế bào thần kinh trung ương, làm cho hệ thống chúng hồi phục. Tùy theo cân nặng của bệnh nhân dưới hay trên 70 kg mà có phác đồ riêng.
Biến chứng trong phẫu thuật hút mỡ - ghép mỡ
Biến chứng có thể gặp như giảm thể tích tuần hoàn; hạ thân nhiệt; huyết khối - thuyên tắc mạch; hội chứng tắc mạch mỡ; nhiễm trùng, viêm mô tế bào, hoại tử mỡ, sốc sepsis.
- Sốc giảm thể tích
Nguyên nhân do lượng dịch và mỡ hút ra quá nhiều hoặc mất máu nhiều trong quá trình phẫu thuật. Bác sĩ có thể chẩn đoán dựa vào mạch nhanh nhỏ, huyết áp tụt, da niêm mạc lạnh ẩm, nhợt, thiểu niệu, rối loạn ý thức... Tùy theo nguyên nhân do mất máu hay mất dịch mà nồng độ HC, HGB tăng hoặc giảm, có các biểu hiện rối loạn, điện giải...
Xử trí theo phác đồ, trong đó, cần đảm bảo hô hấp (đặt đầu thấp, thở oxy, đặt ống nội khí quản...), đảm bảo tuần hoàn (truyền dịch, truyền máu, vận mạch...) và điều trị phối hợp như truyền các yếu tố đông máu, giữ thân nhiệt.
- Hạ thân nhiệt
Tình trạng xảy ra do gây mê, gây tê; nhiệt độ phòng mổ thấp, bộc lộ vùng mổ rộng; truyền dịch nhanh, khối lượng lớn, nhiệt độ thấp; thời gian phẫu thuật kéo dài. Bệnh nhân cao tuổi, bệnh nhân có tiềm ẩn có nguy cơ hạ thân nhiệt cao.
Ủ ấm cho bệnh nhân hạ thân nhiệt, để nhiệt độ phòng mổ 20-24 độ C, rút ngắn thời gian phẫu thuật là những cách để tránh tình trạng này.
- Biến chứng huyết khối - thuyên tắc mạch
Biến chứng có thể xảy ra ở giai đoạn trước, trong và sau phẫu thuật. Người càng nhiều tuổi, thời gian phẫu thuật càng dài, mắc các bệnh tiềm tàng không phát ra thì nguy cơ biến chứng tăng.
Trong giai đoạn trước phẫu thuật thẩm mỹ cần phát hiện và điều trị các bệnh lý, rối loạn đông cầm máu, trong giai đoạn phẫu thuật giảm thiểu thời gian thực hiện, sử dụng máy bơm hơi áp lực ngắt quãng. Vận động đi lại sớm ngay ngày đầu sau hậu phẫu, phát hiện kịp thời các triệu chứng là điều cần thiết.
- Tắc mạch do mỡ
Khi mỡ đi vào lòng mạch, gây ra một loạt các triệu chứng gọi chung là hội chứng tắc mạch mỡ (FES). Tùy vị trí mỡ tắc, biểu hiện mà bác sĩ có biện pháp xử trí phù hợp.
Chẩn đoán dựa vào những triệu chứng chính và triệu chứng phụ, nếu có ít nhất hai triệu chứng chính (đường hô hấp, thần kinh hoặc ban sốt huyết) hoặc có một triệu chính và bốn triệu chứng phụ như sốt, nhịp tim nhanh, vàng da... Hiện tại chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu, chủ yếu điều trị triệu chứng như hỗ trợ hô hấp, dùng thuốc chống đông, kháng sinh...
Biến chứng phẫu thuật vùng hàm mặt
- Tổn thương mạch máu
Nếu phẫu thuật viên dày dặn kinh nghiệm thì tai biến vùng hàm mặt gần như không xảy ra. Nguyên nhân thường do người thực hiện ca mổ không được đào tạo bài bản, không thực hành tốt, bất cẩn.
Hệ thống mạch máu ở vùng mặt rất nhiều nên nguồn chảy máu khá đa dạng đến từ động mạch, các mạch trong xương... Biến chứng có thể gặp là nhiễm trùng do quy trình thiếu an toàn, công tác vô khuẩn không làm tốt.
- Sốc mất máu
Chia thành mức độ từ một đến bốn, tùy theo mức độ mà đưa ra biện pháp xử trí. Khi thực hiện truyền dịch, truyền máu, bác sĩ cần chú ý nâng cao tuần hoàn, hô hấp của bệnh nhân.
Biến chứng phẫu thuật vùng bụng
Biến chứng có thể gặp như tổn thương mạch máu, sốc mất máu, chèn ép đường thở, tổn thương thần kinh... Phẫu thuật viên cần có tay nghề, thực hiện đúng quy chuẩn, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ cho phẫu thuật, vật liệu cầm máu. Theo dõi và xử trí sớm triệt để nguồn chảy máu, phù nề rất cần thiết.
Biến chứng phẫu thuật vùng ngực
Các biến chứng có thể có như tổn thương mạch máu; tổn thương phổi, màng phổi; nhiễm trùng. Nguyên nhân do phẫu thuật động chạm đến các bộ phận liên quan, cầm máu triệu để trong trường hợp này.
Biến chứng phẫu thuật vùng bụng
Tổn thương gần giống với biến chứng của vùng hàm mặt, vùng ngực. Bệnh nhân cần khám đánh giá về chức năng hô hấp, tiên lượng và điều trị các bệnh lý hô hấp kèm theo, tránh thu cơ thành bụng quá mức. Bác sĩ thao tác nhẹ nhàng đúng lớp giải phẫu, theo dõi sát sao sau ca mổ.
Kim Uyên