Hoàng Hạ Vũ
Tình cờ tôi lượm được tờ giấy vàng ố trong cuốn sách cũ. Cái sự "tình cờ" này thường xảy ra đối với những người hay mua sách cũ. Đôi lúc là tờ giấy ghi chép lặt vặt, tờ xổ số, thậm chí là tiền giấy. Nhưng tờ giấy này khiến tôi rùng mình. Cái rùng mình không phải vì lạnh. Tôi rùng mình bởi nhớ ngày xưa - cái thời bao cấp.
Ngày đó, tôi còn nhỏ nhưng đủ đưa vào ký ức những kỷ niệm không thể nào quên. Tờ mờ sáng, tôi và chị dậy rất sớm để kịp ra kho gạo xếp hàng mua. Mẹ tôi dặn đi dặn lại phải giữ cẩn thận cái sổ gạo: "Chúng mày mà làm mất, cả nhà chết đói đấy, rõ chưa", bao giờ bà cũng kết thúc sự dặn dò bằng cái giọng dọa dẫm buồn cười ấy.
Mặc dù dậy từ rất sớm nhưng ra đến nơi đã có rất nhiều những viên gạch vỡ đặt ở đó rồi. Người ta xí chỗ bằng cách đặt gạch (có lẽ từ "đặt gạch" trong giao dịch ngày nay xuất phát từ thời đó chăng?). Tôi thường tự hỏi: quái, người ta không ngủ hay sao mà nhiều gạch thế?
Tem phiếu ngày xưa. |
Mẹ tôi thường sai tôi đi ra cửa hàng lương thực để mua thịt, nước mắm. Gọi là mua cho oai chứ làm quái gì có tiền. Tiền khi đó là một mẩu phiếu. Thịt, nước mắm, muối, dầu... mỗi loại là một phiếu. Cô mậu dịch viên mặt cau có đưa cái kéo lạnh lùng cắt phịch nhát vào tờ phiếu. Mỗi lần mẹ sai đi mua ở cửa hàng lương thực tôi sợ lắm!
Phần vì sợ cảnh chen lấn, xếp hàng với "dây người" dài dằng dặc, mà tôi thì nhỏ như cái kẹo mạ mút dở, vô phúc hôm nào mà xếp hàng cạnh một bà mông to như cái thúng, thoang thoảng mùi "viêm cánh" thì khốn nạn cho cái mũi của tôi. Cái chính tôi sợ là sợ khuôn mặt các cô mậu dịch viên. Hồi đó, tôi còn nhỏ lắm, mới 10 tuổi nhưng phần nào ý thức về giới tính. Mắt lấm lét đưa tờ phiếu, trong đầu tôi tự hỏi: "không hiểu ai có thể dũng cảm ôm khuôn mặt nhăn nhó như khỉ nhai ớt ấy vào lòng mà nói câu: 'I love you' được nhỉ?".
Đời sống vật chất hồi đó nghèo nàn lắm! Chập tối, nhất là tối thứ bảy, cả nhà xúm xít quanh cái đài bán dẫn nghe chú Phạm Đông đọc Câu truyện ở Đại đội hoặc nghe Câu chuyện cảnh giác. Đề tài quanh đi quẩn lại chỉ là câu chuyện cảnh giác vùng biên chống thám báo Tàu. Tôi còn nhớ, đài Trung Quốc hồi đó hay kể Tam Quốc diễn nghĩa với giọng đọc của Nguyễn Thanh, Thủy hử với giọng đọc của Chí Cường, nhưng ấn tượng nhất là Bạch Minh đọc Tây Du ký.
Sóng thu thanh khi rõ khi mất như thằng ốm nói thều thào. Bố tôi thường gọi là bị bạt sóng. Mà mỗi lần nghe đài Tàu cứ phải vặn volume bé tý rồi áp tai vào để nghe. Tôi thường được phân công đứng cạnh đài, mỗi lần "bạt sóng" thì vặn volume to, khi sóng bắt tốt thì phải vặn nhỏ xuống. Để làm gì? Để tránh bị công an hỏi thăm vì tội "nghe đài địch". Thật là buồn cười cho một thời nhận thức bạn - thù.
Chiếc đài Vec 206. |
Mỗi sáng, tôi thường bật dậy vào lúc 5h30 để học bài. Mà muốn ngủ cũng không ngủ được, cái đồng hồ chuông cơ "con gà" của Tàu hoặc "Sevani" của Liên Xô kêu to như cháy nhà. Đôi lúc mệt quá không muốn dậy, mắt nhắm mắt mở sờ soạng bấm vào nút như cái cúc áo trên đồng hồ để ngắt chuông. Hồi đó, có lẽ ngày Tết là vui nhất (người ta chẳng nói "vui như Tết" mà).
Tết đến, bức tranh xám xịt của cuộc sống thường nhật mới được tô điểm. Sắc hồng của tràng pháo, sắc xanh nhạt của chai rượu chanh và báo Tết nữa, chỉ báo Tết mới có nhiều màu sắc. Tất nhiên, so với báo Tết bây giờ thì những tờ báo đó chỉ là cô thôn nữ quê mùa mới tập trang điểm. Màu đỏ trên tờ báo hồi đó cũng bợt bạt, mà quanh đi quẩn lại chỉ 3 đến 4 màu nhưng như thế là đẹp lắm rồi.
Lại nói đến bữa ăn thời bao cấp, nhà nào khá giả lắm mới không phải ăn độn. Thịt cá dĩ nhiên là không có bán ngoài chợ rồi. Nhà nước quản lý việc giết mổ gia súc. Nhà nào muốn mổ lợn phải làm đơn và nộp thuế sát sinh. Kẻ nào to gan mang thịt ra chợ bán bị bắt chỉ còn nước sạt nghiệp. Mấy ông phòng thuế hồi đó to như... cái đình. Hình hài cũng gầy gò như đa số nhân dân thôi nhưng không hiểu sao mồm hét to thế không biết. Chẳng phải "trường cổ tắc đại thanh" mà là cái quyền cho con người ta nội lực để vận khí... hét.
Đói, đói quá. Cái đói đi vào thơ ca, đi vào những bài hát chế lời. Thôi thì hết "em ăn gì thì nói đi, để anh mua, thịt gà hay nem chua..." lại đến "cắc cùm cum, lấy xà beng đập đầu con cá chuối, dấm canh chua thả ớt cho thật cay..." (chế từ Tiếng chày trên sóc boong bo). Mỗi bữa, mẹ tôi thường giao hẹn mỗi đứa chỉ ăn hai bát cơm. Thật là thương cho cái dạ dày của tuổi sắp lớn. Lúc nào nó cũng ở trạng thái lưng lưng, thèm thuồng.
Cuộc sống giờ đây chưa phải là sung sướng, sự bấp bênh của nền kinh tế luôn đe dọa mỗi người. Nghĩ đến ngày mai, tôi vẫn tự thương cho mình và thương cho đa số những người có quốc tịch giống tôi. Tuy nhiên, ngày nay vẫn là "thiên đàng" của ngày xưa. Hôm nay, ngồi nhìn mâm cơm đầy ắp thức ăn, tôi chống đũa thở dài sườn sượt vì sợ những thịt và cá.
Hai đứa trẻ con suốt ngày ca cẩm: "Lại bắt ăn". Ôi chao! Giá những miếng thịt, đĩa cá kia mà xuất hiện ở mâm cơm hơn 20 năm về trước thì chỉ một loáng là hát bài "Trống vắng". Giá bọn trẻ biết được bằng tuổi đó, cái thằng đàn ông sinh ra chúng trệu trạo nhai bo bo cùng sắn và suốt ngày đòi ăn cơm thì chúng chẳng tin nổi.
Dù sao, muốn hay không thì nó cũng là một giai đoạn của lịch sử. Cái gì thuộc quá khứ thì để tương lai phán xét. May thay, tôi còn giữ lại được những kỷ vật của một thời như vậy...
Chiếc đồng hồ Sevani Liên Xô. |
Đèn dầu. |
Quạt con cóc. |
Sổ mua lương thực hay sổ gạo. |